Phó Giáo sư Tiến sĩ

VƯƠNG ĐÌNH ĐƯỚC

CẢM ƠN CUỘC ĐỜI!
 
Cha mẹ sinh các anh chị và tôi (là út) trong hoàn cảnh nạn đói năm 1945. Cha mẹ tôi đã từ giã quê hương để đi lên Giang Sơn, Nghệ An khai hoang động không dấu chân người để mưu sinh và cứu sống. Do hoàn cảnh éo le bệnh tật, hồi ấy thuốc không có, cha tôi mất vào năm 1948 và mẹ tôi mất vào năm 1952. Tuổi thơ cha mẹ mất sớm, anh đi làm việc xã hội, chị lo việc đồng áng để kiếm sống qua ngày. Thương cha thương mẹ, chiều chiều vào lúc trâu bò về chuồng, tôi lại bàn thờ khóc nức nở. Ôi làm sao cho qua thời gian này! Thương cha mẹ vô cùng.
 
Tôi sống mồ côi cha khi lên 6 tuổi và mồ côi mẹ khi lên 10 tuổi nên dựa vào anh chị em kiếm sống.
 
Nhưng thời gian cứ trôi đi, tôi phải mò cua bắt ốc để kiếm sống và ăn học. Ngày qua ngày, năm qua năm. Tôi cố gắng học để kiếm gạo. Ngày đi học một buổi, đi làm kiếm sống một buổi, tối về phải dồi mài kinh sử bên chiếc đèn dầu.
 
Thời gian cứ trôi qua, trường tiểu học đã qua, trường trung học đã tới và cấp 3 đã hoàn thành. Năm sau, tôi thi đậu vào Đại học.
 
“Năm năm với chín kỳ thi một kỳ tốt nghiệp, còn gì là Xuân?”
 
Sau khi tốt nghiệp Đại học, tôi được ở lại Hà Nội làm công tác nghiên cứu. Sau khi đất nước thống nhất, đầu năm 1977, tôi được cơ quan điều vào Miền Nam nhận nhiệm vụ phụ trách nghiên cứu, cải tạo hàng triệu hecta đất chua phèn hoang hóa ở Miền Nam để trồng lúc 2 vụ.
 
Công việc nặng nề và khó khăn đè lên đôi vai người kỹ sư thủy lợi trẻ tuổi. Nhưng với quyết tâm cao, phải đọc sách nhiều, so sánh đất phèn Việt Nam khác với đất phèn thế giới (nhất là đất phèn Hà Lan). Các nhà khoa học của đất nước Hà Lan có tên tuổi trên thế giới đã làm việc với chúng tôi và cho lời khuyên rằng không nên đào kênh vào 2 vùng phèn Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên lấy nước ngọt để thau chua rửa phèn. Nếu làm như vậy chẳng khác gì húc đầu vào đá “đá cứng đầu mềm thì sẽ vỡ đầu” (trích bài báo Nhân Dân ngày 22/5/1995).
 
Nhưng qua phân tích cơ sở đất phèn của Việt Nam và đất phèn của Hà Lan có khác nhau. Nếu cải tạo bằng vôi thì 1 ha cần 30 tấn vôi. Vôi lấy đâu, tiền lấy đâu để cải tạo? Dựa vào tài liệu nghiên cứu thực tế trên khu vực thực nghiệm 20 ha ở vùng Tứ giác Long Xuyên và 100 ha ở Đồng Tháp Mười. Chúng tôi đã đề xuất sử dụng và cải tạo đất phèn bằng biện pháp thủy lời là phù hợp với đất phèn Nam Bộ.
 
Sau một thời gian 2 – 3 năm với rất nhiều hội thảo, các nhà khoa học trong nước và thế giới cuối cùng đi đến kết luận là phải đào kênh vào 2 vùng đất phèn, lấy nuớc ngọt của sông Mê Kông về mùa lũ để thau chua rửa phèn thực tế với đất phèn Nam Bộ. Những cánh đồng cỏ hoang mọc dày đặc, chỉ nhìn thấy chân trời. Sau mấy năm cải tạo, những cách đồng hoang đã trở thành cánh đồng lúa 2 vụ cho năng suất cao. Đất nước ta có gạo xuất khẩu nhất nhìn thế giới.
 
Những kết quả đó là nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, công sức của nông dân Nam Bộ và các nhà khóa học trong và ngoài nuớc. Tôi là một hạt cát trong sa mạc đóng góp vào sự thành công này. Tiếp tới trang sử mới, gạo nhiều xuất khẩu chưa đủ nhưng giờ đây phải từng bước nghiên cứu cải tạo, cải giống lúa gạo có chất lượng cao mới đáp ứng khách hàng thế giới, đem lại hiệu quả kinh tế cao. 
 
Trong quá trình 18 năm lăn lộn với nông dân Nam Bộ và các nhà khoa học, tôi đã tìm ra hướng giải quyết đất phèn Nam Bộ. Đến năm 1995, sự nghiệp nghiên cứu cải tạo đất phèn của tôi tạm dừng, chuyển sang công việc nghiên cứu và học tập bậc cao. Tôi bảo vệ luận án Tiến sĩ năm 1995 và được phong hàm Phó Giáo Sư năm 1996. Sự nghiệp được chuyển sang lĩnh vực môi trường. Đúng vào thời kỳ đổi mới của đất nước, các nhà máy công xưởng mọc lên khắp tỉnh thành. Tôi bắt tay vào công việc kỹ thuật xử lý nước thải, xử lý nước sach, xử lý khí thải cho các nhà máy và khu công nghiệp. Tôi chủ trì và tham gia hàng trăm công trình lớn nhỏ, phục vụ cho xã hội.
 
Giờ đây tuổi đã cao, sức khỏe đã giảm. Ngẫm nghĩ nhìn lại thành quả hàng chục năm cống hiến PGS-TS Vương Đình Đước tự thấy mình vẫn làm chưa đủ, làm thêm việc thiện và tạo điều kiện cho thế hệ trẻ vươn lên. Tôi đã khoan giếng xử lý lắp đặt dây chuyền lọc nước sạch bằng công nghệ NaNO42MWH cho 3 trường học xã Trung Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
 
Ước mong của tôi vẫn khát khao được nghiên cứu và làm việc. Tôi chỉ mong có nhiều sức khỏe để tiếp tục niềm đam mê bất diệt và nhiệt huyết của cả đời.
 
1964 – Trúng tuyển vào Khoa Thủy nông Cải tạo đất – Trường Đại học Thủy lợi Hà Nội
1969 – Tốt nghiệp Đại học Thủy lợi Hà Nội
1970 – Lập gia đình với cô Nguyễn Thúy Hương
1976 – Vào Miền Nam phụ trách Bộ môn Thủy nông – Viện Nghiên cứu Khoa học Thủy lợi Miền Nam, đóng tại 2A Nguyễn Biểu, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
1978 đến 1986 – Phụ trách chung 4 điểm nghiên cứu thủy nông, tập trung nghiên cứu trên 1.6 triệu hecta đất chua phèn trồng lúa 2 vụ ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Dự án được Thụy Điển tài trợ kinh phí qua Tổ chức Mê Công Quốc tế
1995 – Bảo vệ Luận án Tiến sĩ
1996 – Được phong hàm Phó Giáo sư
1997 – Nhận Bằng khen của Thủ tướng Võ Văn Kiệt 
2003 – Là Viện trưởng Viện Kỹ thuật Tài nguyên Nước và Môi trường 
2016 – Được UNESCO Việt Nam vinh danh Trí thức Việt Nam Sáng tạo và Cống hiến
Xuất bản 2 quyển sách: 1) Cải tạo Đất phèn Đồng bằng Sông Cửu Long và 2) Kỹ thuật Cải tạo Đất phèn Đồng bằng Sông Cửu Long – Nhà Xuất bản Nông nghiệp